Tục Ngữ - Ca Dao Việt Nam
Mỗi một dân tộc, một quốc gia nào trên thế giới đều có những nét đặc trưng riêng về bản sắc và nền văn hoá của mình. Điều đó là một sự tự hào dân tộc. Cũng như Việt Nam ta, một kho tàng về một nền văn minh hình thành rất sớm từ thời cây lúa nước. Tạo ra cho con người Việt cổ đã biết lao động và hình thành cái trục cho sự xuất hiện và hình thành xã hội sau này. Nhưng không chỉ có vậy, rồi từ từ trong cái tiến hoá của con người nói chung người Việt cổ nói riêng, cái tất yếu cũng ra đời (tiếng nói, chữ viết, âm nhạc, hội hoạ...) sớm xuất hiện và hình thành ngày càng hoàn chỉnh hơn trong đời sống tinh thần của họ. Lúc bấy giời, lẫn lượt trôi dạt mãi đến ngày nay, đúc kết trong cuộc sống và những kinh nghiệm thiết thực trong xã hội và đặc biệt, lưu truyền theo cách truyền miệng từ người này qua người khác. Tục ngữ ca dao đã ra đời.
Âm tiết đơn giản. Lời lẻ mộc mạc, rất đời thường nhưng tô điểm rất đậm nét các vấn đề xã hội lúc ấy. Càng đáng trân trọng hơn nữa là lưu trữ kho tàng này là những người nông dân, những người địa phương theo cách truyền miệng. Đôi khi qua sự truyền miệng ấy, xuất hiện nhiều dị bản khác nhau, nhưng vẫn không mất ý nghĩa của câu ca dao, tục ngữ.
Tình cha mẹ con cái, tình anh em, tình vợ chồng, tình yêu đôi lứa, tình người ... đã thể hiện hết trong lời và ý thơ, cái chất dân gian đã tạo được sự rung động trong lòng người. Không hoa mỹ, không cầu kỳ, không triết lý, nhưng nói hết được toàn cảnh về đời sống con người thời ấy.
Mỗi thể thơ khi đọc lên là hiểu ngay. Đó mới chỉ là một phạm trù nhỏ. Cái mà mình trân trọng là ý nghĩa của từng câu ca dao, tục ngữ đó. Có một nhà phê bình văn học đã từng nói " nói về ca dao tục ngữ Việt Nam, tôi không thể nói được, kỳ lạ lắm, thiên liêng lắm, đời thường lắm" .
Thơ về tình cảm gia đình
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm mai
Chàng đi nhớ cháo làng Ghề
Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Ðông Viên
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương
Non cao biển rô.ng người thương đi về
Yến sào mang đậm tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non
Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta (*)
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm
Gia đình trên thuận dưới hoà,
Quý hơn tiền của ngọc ngà muôn xe.
Ơn cha nghĩa mẹ năng triều
Ra công báo đáp ít nhiều phận con
Ai bỏ cha mẹ cơ hàn;
Ngày sau Trời phạt đứng đàng ăn xin
Có con nghĩ mẹ thương thay
Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau
Có nuôi con mới biết công cha mẹ
Còn cha còn mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây
Đàn đứt dây còn xoay còn nối
Cha mẹ mất rồi con phải mồ côi
Con cuốc kêu khắc khoải mùa hè
Làm thân con gái phải nghe lời chồng
Sách có chữ phu xướng phụ tòng
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia
Lấy em về thờ mẹ kính cha
Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Thờ cha kính mẹ ấy là người ngoan
Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày
ơn cha nặng lắm cha ơi
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
Đi khắp thế gian, ko ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời, ko ai khổ bằng cha