Class 7/1 - Nguyen Khuyen School
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Class 7/1 - Nguyen Khuyen School

Chào mừng các bạn đến với Website của lớp 7/1 trường THCS Nguyễn Khuyến!!
 
Trang ChínhGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Văn học trung đại - nhà thơ Nguyễn Du

Go down 
4 posters
Tác giảThông điệp
Dinh Vinh Hoang
Admin
Dinh Vinh Hoang


Tổng số bài gửi : 282
Reputation : 0
Join date : 16/09/2009
Age : 26
Đến từ : Đà Nẵng

Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du Empty
Bài gửiTiêu đề: Văn học trung đại - nhà thơ Nguyễn Du   Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du I_icon_minitimeThu Nov 05, 2009 5:04 pm

Nguyễn Du

Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du Nguyendu01


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia



Bước tới: menu, tìm kiếm

Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; 17651820) tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Nguyễn Du được xem như là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, ông được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới.

Mục lục


[ẩn]



//

[sửa] Cuộc đời


Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn là dòng dõi Nguyễn Xí gốc ở xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Bởi Nguyễn Xí là đại công thần khai quốc nhà Lê,
do đó sáu bảy thế hệ viễn tổ trước ông đã từng đỗ đạt làm quan. Nguyễn
Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê
mạt.
Thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê...
Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên
cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai[1]. Người con trưởng là Nguyễn Khản
(1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản
Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một
thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy.
Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế, [2], người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.[3].
Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài
không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ,
ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn
Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)).
Năm 1780,
khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh
Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh
Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh
Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng.
Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà,
khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.
Năm 1783,
Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì
không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm[4] một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.
Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.
Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ[5], quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).
Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh
(1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi
địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy,
bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một
thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng
(1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc,
nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng
khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 16 tháng 9 năm 1820[6]
Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh)[7].
[sửa] Tác phẩm


[sửa] Khái quát


Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính
là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là
sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc
biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (xem: Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.). Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm
vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật
, thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất
sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm
của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát
“có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại
truyện thơ.”[8]
[sửa] Tác phẩm bằng chữ Hán


Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra như sau:

  • Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
  • Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
  • Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Nhận xét về mảng thơ này, Ngữ văn 10 tập 2 viết:
"Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của ông. Các bài thơ trong Thanh Hiên thi tậpNam trung tạp ngâm
tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ
khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả.
Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của
Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca
ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật
phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con
người. Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị
đọa đày hắt hủi..."(tr. 94)
[sửa] Tác phẩm bằng chữ Nôm


Sáng tác của Nguyễn Du gồm có:

Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học ghi: Có thuyết cho
rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có
thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian
làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp
nhận hơn (tr. 1844)
Ngữ văn 10 tập 2 đánh giá: "Trên nền tảng nhân đạo chủ nghĩa
vững chãi, với tài năng điêu luyện, với sự lựa chọn thể loại truyện thơ
kết hợp nhuần nhuyễn cả chất tự sự và chất trữ tình, với sự am hiểu
đồng thời cả ngôn ngữ bình dân cũng như ngôn ngữ văn học bác học,
Nguyễn Du đã sáng tạo nên một kiệt tác độc nhất vô nhị của văn học
trung đại Việt Nam." (tr.94)

  • Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh,
    dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng
    tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế
    này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non
    sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn
    giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.

Ngữ văn 10 tập 2 nhận xét: "Nguyễn Du viết bài thơ chiêu hồn
cho nhiều hạng người khác nhau, kể cả những người thuộc tầng lớp phong
kiến quý tộc. Song tấm lòng nhân ái của nhà thơ vẫn hướng về những thân
phận nhỏ bé, dưới đáy xã hội...Do giá trị nhân đạo sâu sắc mà Văn Chiêu
hồn đã được phổ biến rộng rãi, kể cả trong phạm vi nhà chùa." (tr. 95)

  • Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.


  • Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.

Hai bài này được sáng tác khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Nghệ An, sau bị quân Tây Sơn bắt giữ rồi thả.
Theo Từ điển văn học (bộ mới) thì: "Bài Thác lời trai phường nón rất tình tứ, mang âm hưởng của ca dao, của còn đậm nét. Bài Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, tác giả cũng học tập ở ca dao, tục ngữ, thành ngữ nhưng chưa được nhuần nhuyễn; nhiều chỗ tác giả tỏ ra quá lệ thuộc, làm giảm tính sáng tạo của mình.
[sửa] Nỗi lòng Nguyễn Du


Nỗi lòng của Nguyễn Du rất phức tạp. Để hiểu nó, các nhà nghiên cứu văn học thường dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền và các tác phẩm của ông (đặc biệt là Truyện Kiều)
để rút ra một số nhận định. Nhưng những nhận định ấy đến nay vẫn chưa
thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau một cách sâu sắc.
Trích một số ý kiến:
Năm 1963, GS. Phạm Thế Ngũ viết:
"Một thuyết thịnh hành từ lâu do Trần Trọng Kim xướng ra rằng Truyện Kiều chứa đựng một tâm sự tha thiết nhất của Nguyễn Du, ấy là cái tâm sự của kẻ hàng thần nhớ chúa cũ (hoài Lê).
Thuyết trên không phải là điều bị đặt mà có sở cứ rõ ràng. Thái độ phò
Lê của ông được tỏ rõ trong những mưu toan chống Tây Sơn. Về sau, bất
đắc dĩ phải ra hợp tác với Nguyễn, ông thường tỏ ra kín đáo, nếu không
nói là lãnh đạm, lúc nào cũng như mang nặng trong lòng một bầu u uất
khó nói. Nỗi lòng ấy chỉ có thể là, như lời ai điếu của Bùi Kỷ trong bài Truy điệu cụ Tiên Điền vào năm 1927:
Dở dang thay cái tu mi.Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền.
"Hành vi của tác giả chứng tỏ, mà văn chương của tác giả nhiều khi cũng hé lộ rõ ràng. Nhiều bài thơ chữ Hán của ông trong Thanh Hiên tập, Bắc hành tập, đầy ý điếu cổ thương kim, giọng khảng khái bi đát. Cho đến bao nhiêu câu trong chính Truyện Kiều tả thân thế người con gái lưu lạc cũng gióng lên tiếng đau buồn ấy của tác giả..."(tr. 360)
Năm 1967, GS. Thanh Lãng viết:
"Anh em Nguyễn Du đã từng cầm quân ủng hộ nhà Lê, tỏ ra khí phách
hơn người. Nhưng công việc không thành, nhà chính trị trẻ tuổi (Nguyễn
Du) bỏ về quê, lấy thú chơi săn bắn ở núi Hồng Lĩnh... "Và như phần
đông nho sĩ đương thời, ông cho cái đời làm quan dưới một triều đại mới
là một trạng thái “thất tiết”, thành ra suốt đời lúc nào ông cũng buồn
rầu, ân hận..."(tr. 612)
Năm 1973, nhà phê bình Thạch Trung Giả viết:
"Điều hiển nhiên là niềm tưởng nhớ nhà Lê, nỗi uất ức của người dồn
phải dồn vào thế hàng thần. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Du là một con
người có khí tiết nên đã từng mưu sự cần vương chống Quang Trung. Đến
khi nhà Tây Sơn đổ vì nhà Nguyễn, đám cố Lê hết chính nghĩa để chống
lại, nhưng những người như Nguyễn Du vẫn không quên mình và ông cha
mình đã từng ăn lộc nhà Lê. Vậy việc phải làm tôi cho Gia Long là một
vạn bất đắc dĩ, một sự đau lòng, một sự tủi nhục..."(tr. 370)
Năm 1978, GS. Trương Chính viết:
"Đọc ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta có thể giải quyết
được một vấn đề trước nay ý kiến rất phân tán: thái độ của Nguyễn Du
đối với các triều đại."
"Trong một thời gian khá dài, từ khi Tây Sơn ra Bắc hà (1786) cho đến khi Tây Sơn thất bại (1802), rõ ràng Nguyễn Du có tính việc phục quốc
(phù Lê)." Nhưng những chiến thắng của Quang Trung năm 1789 đã làm cho
nhiều người có tư tưởng chống Tây Sơn khiếp đảm. Do đó, Nguyễn Du bi
quan, chán nản."
"Tuy vậy, đến khi ông trở về quê nhà, dưới chân núi Hồng Lĩnh, chí phục quốc vẫn chưa nguôi. Thế là, theo Gia phả, ông toan vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh."
"Và sau này, cũng theo Gia phả thì: Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Tuất
(1802), vua Cao Hoàng (tức Gia Long) đi ra Nghệ An. Ông (Nguyễn Du) đón
xe yết kiến vua và được đem thủ hạ đi theo ra Bắc. Mùa thu tháng 8 năm
ấy, ông được bổ tri huyện huyện Phù Dung
. "Về điểm này, Đại Nam chính biên liệt truyện chép hơi khác: Đến khi có lệnh (Gia Long) gọi, không thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra. Ở đây, chưa bàn Gia phả hay Liệt truyện
chép đúng, nhưng cũng như một số nhà nho đương thời, thái độ của Nguyễn
Du đối với nhà Nguyễn có khác hơn đối với Tây Sơn. Nghĩa là những cựu
thần nhà Lê này vẫn có thể ra phò giúp mà lương tâm không cắn rứt."
"Nhưng tại sao Nguyễn Du được nhà Nguyễn tin dùng mà thái độ hình
như là bất đắc chí. Sách Đại nam chính biên liệt truyện cho biết Đối với nhà vua thì ông chỉ giữ hết bổn phận, chứ không hay nói năng điều gì” khiến có khi bị nhà vua quở trách... "Qua những bài thơ trong Nam trung tạp ngâm,
kể cả những bài thơ làm trong khi đi sứ, quanh quẩn chỉ bấy nhiêu ý: ca
tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những người cầu phú quí công danh, nhớ
nhà, nhớ thú săn bắn, muốn về yên nghĩ, cho đời là một cuộc bể
dâu...Nghĩa là Nguyễn Du đã nhìn thấy những nỗi đau khổ của quần chúng
bị áp bức, đã thấy được cái mục nát, tàn khốc trong triều đình nhà
Nguyễn, cho nên ông đã gửi tâm sự vào hai câu thơ:
Bất tri tam bách dư niên hậu,Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như."[9]
Và ý kiến của Nguyễn Lộc trong Từ điển văn học (bộ mới), xuất bản năm 2004:
"Có một điều lạ là Nguyễn Du từng chạy theo Lê Chiêu Thống,
và như một số tài liệu nói, ông từng có ý định chống nhà Tây Sơn; nhưng
trong các sáng tác của ông, những thái độ này rất mờ nhạt. Trong khi
những người khác có hàng tập thơ khóc vua Lê thì ông chỉ ít nhiều rõ
nét trong mỗi bài My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù) và đả
kích nhà Tây Sơn, thì Nguyễn Du không có một bài nào đả kích. Với nhà
Nguyễn, ông được trọng vọng, mà trong thơ ông có cái gì như chán chường
nhà Nguyễn. Cũng giống như Thanh Hiên thi tập, trong Nam Trung tạp ngâm,
chưa bao giờ Nguyễn Du nói rõ cái tâm sự thật của mình; rải rác đây đó,
trong thơ chỉ thấy ông than thở cuộc đời là đáng buồn, đáng chán, là vô
nghĩa, là bãi bể nương dâu.
Trong Bắc hành thi tập, nhà thơ có viết về Thăng Long (2 bài) để nói lên những đổi thay đáng buồn của một đế đô. Tuy bài thơ toát lên một tình cảm nhớ cổ, thương kim da diết, mông lung , nhưng khó có thể nói đây là bài thơ nhớ nhà Lê được. Còn ở Long thành cầm giả ca,
thì bài thơ không có tí gì gọi là thù địch với nhà Tây Sơn, mà trái
lại, trong khi thương xót cho số phận của người ca nữ, nhà thơ lại có
vẻ như ngậm ngùi cho sự sụp đổ của triều đại trên...Thái độ của ông như
thế nào, thật hết sức khó hiểu. (tr. 1122)
Bởi còn đôi điều khác biệt trên, nên chỉ có thể tạm kết luận:
Nguyễn Du là một con người suy nghĩ nhiều về cuộc sống đương
thời, có thái độ yêu ghét khá rõ trước cái tốt cái xấu, nhưng không sao
thoát khỏi buồn phiền vì không giải thích nổi cuộc đời và không biết
phải làm thế nào để thay đổi cuộc đời đó.
[10]
[sửa] Chú thích



  1. ^ Ghi theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 18.
  2. ^ Từ điển văn học (bộ mới) ghi: xuất thân từ giới bình dân. (tr.1120)
  3. ^
    Thứ tự như sau: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ (hơn Nguyễn Du 4 tuổi), Nguyễn
    Du, Nguyễn Ức (kém Nguyễn Du 2 tuổi) và Nguyễn Thị Niên. Năm 1775,
    người con đầu của bà Tần mất, mới 18 tuổi, năm sau chồng mất, hai cái
    tang liền làm cho bà đau buồn rồi lâm bệnh mất ngày 27 tháng 7 năm
    1778, khi mới 39 tuổi (theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr 19 và Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1120.)
  4. ^
    Tập ấm: Tập có nghĩa truyền lại đời sau, ấm có nghĩa là nhờ ơn người
    trước để lại mà con cháu được phong tặng chức tước hoặc miễn cho một
    trách nhiệm nào đó.
  5. ^ Vợ Nguyễn Du, sách Ngữ văn 10
    không ghi tên, chỉ cho biết là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh
    Côi, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Khi đến sống ở đây, vài
    tác giả như Phạm Thế ngũ (sách ghi bên dưới, tr. 349) cho biết Nguyễn
    Du có mưu chống lại Tây Sơn, nhưng việc không thành nên bỏ về Nghệ An.
    Nhưng theo Từ điển văn học, căn cứ vào những sáng tác viết vào khoảng thời gian này trong Thanh Hiên thi tập, thì hình như Nguyễn Du chủ yếu là trốn tránh để giữ mình, chứ không có âm mưu chống đối gì.
  6. ^ Ghi theo Ngữ văn 10 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2008, tr.93). Còn Văn học 11 tập I (Nxb Giáo dục, 1981, tr 23), Từ điển Văn học (bộ mới, sách đã dẫn, tr.1120) và theo cách tính của website [1] đều cho biết đó là ngày 16 tháng 9 năm 2008.
  7. ^ Phần tiểu sử Nguyễn Du dựa theo Từ điển văn học (bộ mới), Ngữ văn 10 tập 2, Thơ chữ Hán Nguyễn DuViệt Nam văn học sử giản ước tân biên quyển 2
    của Phạm Thế Ngũ. Và theo GS. Trương Chính thì một phần cuộc đời của
    Nguyễn Du được phân ra mấy giai đoạn như sau: Năm 1786 cho đến khoảng
    cuối năm 1795 đầu năm 1796, là giai đoạn “Mười năm gió bụi”. Năm 1796
    cho đến năm 1802 là giai đoạn “Dưới chân núi Hồng”. Từ năm 1802 đến
    cuối năm 1804 là giai đoạn “Ra làm quan ở Bắc Hà”... (Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 15-16)
  8. ^ Lược theo Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du, Ngữ văn 10, tr. 95-96.
  9. ^ Lược theo bài Giới thiệu của Gs Trương Chính trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 29 - tr.48
  10. ^ Văn học 11, Nxb Giáo dục, 1981, tr.24.
Về Đầu Trang Go down
http://tinyurl.com/blogdinhvinhhoang
yoyohankuso
Bàn Trưởng
Bàn Trưởng
yoyohankuso


Tổng số bài gửi : 169
Reputation : 0
Join date : 10/10/2009
Age : 27
Đến từ : The Sun

Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Văn học trung đại - nhà thơ Nguyễn Du   Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du I_icon_minitimeFri Nov 06, 2009 12:29 pm

Đọc chả hiểu gì cả mà vẫn cứ thank vì có bài viết hay
Về Đầu Trang Go down
...:"*V.I<P pr4^u*":...
Tổ Phó
Tổ Phó
...:


Tổng số bài gửi : 207
Reputation : -1
Join date : 10/10/2009
Age : 26
Đến từ : 7&amp;amp;gt;1N&amp;amp;lt;K&amp;amp;lt;a^m fu?&amp;amp;gt;

Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Văn học trung đại - nhà thơ Nguyễn Du   Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du I_icon_minitimeMon Nov 09, 2009 2:45 pm

Hoàng ơi
đánh máy bài nớ ra lun đê
để tổ mình thuyết trình
Về Đầu Trang Go down
http://vn.myblog.yahoo.com/petumlucky
DN_Mien1997
Bàn Phó
Bàn Phó



Tổng số bài gửi : 112
Reputation : 0
Join date : 17/09/2009
Age : 27
Đến từ : cõi chết

Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Văn học trung đại - nhà thơ Nguyễn Du   Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du I_icon_minitimeMon Nov 09, 2009 4:57 pm


vipr4^u rảnh ghê
pài tổ mình mà đem bảo thằng hoàn đánh ra(cho máy đưa tỏ khác xem á)
rảnh vô đối
Về Đầu Trang Go down
Dinh Vinh Hoang
Admin
Dinh Vinh Hoang


Tổng số bài gửi : 282
Reputation : 0
Join date : 16/09/2009
Age : 26
Đến từ : Đà Nẵng

Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Văn học trung đại - nhà thơ Nguyễn Du   Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du I_icon_minitimeTue Nov 17, 2009 3:26 pm

thứ 5 19/11 ko học tự chọn để học bù rùi Very Happy Mà tổ mình làm ông khác mừ
Về Đầu Trang Go down
http://tinyurl.com/blogdinhvinhhoang
Sponsored content





Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Văn học trung đại - nhà thơ Nguyễn Du   Văn học trung đại -  nhà thơ Nguyễn Du I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Văn học trung đại - nhà thơ Nguyễn Du
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Nguyen Khuyen
» Tài nguyên động vật ở Việt Nam
» Chiến thắng bị nguyền rủa
» truyện Kiều Nguyễn Du đây!
» Trung Thu 3-10-2009

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Class 7/1 - Nguyen Khuyen School :: Học Tập :: Văn Học-
Chuyển đến